У нас вы можете посмотреть бесплатно Tình ta biển bạc đồng xanh - Quang Linh & Mỹ Lệ | GĐTH или скачать в максимальном доступном качестве, видео которое было загружено на ютуб. Для загрузки выберите вариант из формы ниже:
Если кнопки скачивания не
загрузились
НАЖМИТЕ ЗДЕСЬ или обновите страницу
Если возникают проблемы со скачиванием видео, пожалуйста напишите в поддержку по адресу внизу
страницы.
Спасибо за использование сервиса ClipSaver.ru
Tình ta biển bạc đồng xanh sáng tác: Hoàng Sông Hương biểu diễn: Quang Linh & Mỹ Lệ Nhạc sĩ Hoàng Sông Hương từng tâm sự: “Có rất nhiều cơ duyên để nhạc sĩ đến được với công chúng. “Tình ta biển bạc đồng xanh” là một ca khúc xuất thần của tôi sau nhiều trải nghiệm về những hoạt động lao động sản xuất của ngư dân, nông dân khu vực miền Trung”. Luôn tự hào vì được sinh ra, lớn lên, lập nghiệp và đóng góp ở vùng văn hóa Bình-Trị-Thiên, đến nay, nhạc sĩ Hoàng Sông Hương vẫn tiếp tục có những ca khúc góp phần làm đẹp cuộc sống. Tình ta biển bạc đồng xanh” được sáng tác vào năm 1973. Phải nói là cảm xúc được dồn nén khá lâu từ chính những hình ảnh chân thực của chiến tranh, cuộc sống sinh hoạt, lao động của người dân miền biển. Khi công tác ở Đoàn Văn công Quảng Bình, tôi đã cùng đoàn đi biểu diễn ở nhiều nơi, cả vùng nhân dân ta đang lao động sản xuất và vùng chiến sự. Vùng biển Bình-Trị-Thiên những năm đó cũng được coi là “túi bom”, cuộc sống người dân lâm vào cảnh khó khăn. Tôi đã có tác phẩm đầu tay “Tiếng hát đò đưa”, sáng tác về mẹ Suốt-người mẹ anh hùng trên sông Nhật Lệ. Rồi sau đó, tôi đã thấy nhiều nhạc sĩ viết nhạc trong niềm cảm xúc yêu nước, cổ vũ tinh thần chiến đấu rất hay và giá trị, cũng trở thành những ca khúc bất hủ. Riêng tôi, năm 1972 và 1973 đã có cảm giác và hình dung về ngày chiến thắng, thống nhất non sông rất gần. Tôi không muốn đi theo những gì người khác đã làm, nên tôi “nuôi” ý tưởng sáng tác một bài hát không còn tiếng súng, không có hình ảnh của chiến tranh, mà chỉ có sự tươi vui của cuộc sống mới, người dân hăng say lao động, hạnh phúc tràn đầy. Hay đúng hơn, tôi ao ước sáng tạo ra một bài nhạc xanh trong cảm thức hòa bình. Ngay cả khi học ở Nhạc viện Hà Nội, tôi vẫn có những chuyến đi biểu diễn phục vụ đồng bào. Lúc lên đồng xanh, khi xuống biển bạc. Ngày thì sinh hoạt, sản xuất cùng nông dân, ngư dân, đêm chúng tôi lại biểu diễn. Trong tôi hình thành cái tứ “biển bạc-đồng xanh” và lòng tôi hướng theo suy nghĩ của những người lao động cần cù, yêu nước, khao khát xây dựng quê hương giàu đẹp. Có một hình ảnh thú vị mà tôi thấy lặp đi lặp lại là: Hằng ngày, cứ vào sáng sớm, người dân dậy phân công, cắt cử công việc. Phụ nữ và người già yếu thì lên đồng trồng rau, cấy lúa. Thanh niên trai tráng thì xuống biển đánh cá. Khi đã có ý tưởng, có hình tượng, tôi bắt đầu sáng tác. Và vì nghe nhạc nước ngoài nhiều, tôi nhận ra một điểm yếu trong chính bản thân mình, nên đã nỗ lực làm mới mình. Tôi đã sử dụng điệu valse vào trong ca khúc. Mà valse thì hợp với sóng biển và những con tàu lênh đênh. Nó ngẫu hứng, tự do. Bài hát đã ra đời. Khi hát lên, các thủy thủ tàu, ngư dân rất thích vì nó hợp với không khí biển khơi. Tuy vậy phải vài năm sau ca khúc mới phổ biến rộng rãi, do hoàn cảnh lúc đó còn khó khăn. Năm 1976, tôi gửi “Tình ta biển bạc đồng xanh” ra Đài Tiếng nói Việt Nam rồi được phổ biến rộng trên sóng phát thanh, từ đó thính giả cả nước biết đến ca khúc này qua phần thể hiện của đôi song ca Phan Huấn-Tuyết Thanh. Nhiều người đã nói với tôi là nó thành công. Bài hát trở thành niềm động viên cho mọi người, chung tay xây dựng đất nước. Tôi có nghiên cứu âm nhạc và biết rằng, âm nhạc có giá trị tinh thần rất lớn, âm nhạc góp phần làm đẹp cuộc sống và mãi mãi là như thế. Sau thành công của ca khúc này, hai nhạc sĩ Đỗ Nhuận và Trần Hoàn đã đến gặp tôi, chúc mừng, động viên và nói tôi may mắn được sống trong cái “mỏ văn hóa”, nên phát huy khả năng và tận dụng tối đa chất liệu để có thể có thêm nhiều sáng tác hay. Sau Phan Huấn-Tuyết Thanh, có nhiều đôi song ca hát thành công ca khúc như Thu Hiền-Trung Đức, Thanh Hiền-Đức Long, Tuấn Anh-Tân Nhàn… và trong đời sống thường nhật, không biết bao lần những người dân, nam thanh nữ tú, ca sĩ nghiệp dư hát ca khúc này trong niềm phấn chấn khôn tả. Rất nhiều thủy thủ trên tàu đã viết thư về cảm ơn, hỏi thăm, đến nỗi nhiều lá thư tôi không có đủ thời gian hồi âm, mà con gái tôi là ca sĩ Mỹ Lệ đã làm thay bố. Sự thành công và giá trị của ca khúc vượt ra khỏi tưởng tượng của tôi. Tôi nhận thấy ở tác phẩm của mình, cái được nhất là về giai điệu. Giai điệu của ca khúc nặng âm hưởng dân ca miền Trung, nhưng lại khó nhận rõ là vùng nào, mà người dân từ miền biển Quảng Ninh đến Cà Mau đều thấy có mình ở trong đó. Thứ hai là về tính văn chương. Ca khúc của tôi có dáng dấp của một truyện ngắn mini, có hình ảnh, hình tượng, tả cảnh, đối thoại, giao lưu, có chuyện hay lam hay làm của nhân vật “anh” và “em”, để có thành quả là cá đầy khoang, lúa trĩu bông… Đó không phải là một bài thơ nhưng lại có chất thơ. Ca khúc không mang tính hàn lâm mà mang tính đại chúng, thế nhưng vẫn rất hiện đại, nhạc và lời cân xứng nhau. Cái được thứ ba là về hình tượng. Khi ca khúc cất lên, người nghe, người yêu nhạc được hòa vào bức tranh quê hương Việt Nam tươi đẹp. Dù không nói đến địa danh cụ thể nào, nhưng mảnh đất miền Trung thân thương mà đầy gian khó vẫn ẩn hiện trong câu hát “hải âu vui sóng xô”, “cánh cò bay trên thảm lụa”, “cá bạc đầy khoang”, “lúa vàng trĩu bông"