 
                                У нас вы можете посмотреть бесплатно Định Thành Đạo Tràng -《KINH TINH YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA》 или скачать в максимальном доступном качестве, видео которое было загружено на ютуб. Для загрузки выберите вариант из формы ниже:
                        Если кнопки скачивания не
                            загрузились
                            НАЖМИТЕ ЗДЕСЬ или обновите страницу
                        
                        Если возникают проблемы со скачиванием видео, пожалуйста напишите в поддержку по адресу внизу
                        страницы. 
                        Спасибо за использование сервиса ClipSaver.ru
                    
Tư liệu trích lục: ĐịnhThành Đạo Tràng. Thông điệp và ý nghĩa: TÂM KINH TUỆ GIÁC QUA BỜ trích ĐẬP VỠ VỎ HỒ ĐÀO Sư Ông Làng Mai- Trung Quán là nhìn cho rõ để vượt ra được màn lưới nhị nguyên. Biện chứng pháp Trung Quán, theo Long Thọ, là chìa khóa của phương pháp học Phật giáo... Long Thọ không cần sử dụng tới bất cứ một kinh điển Đại thừa nào để thiết lập pháp môn của mình. Ông chỉ sử dụng các kinh điển truyền thống nguyên thỉ. Ông chỉ cần trích dẫn một vài kinh như kinh Kaccāyanagotta Sutta. Ông không cần viện dẫn bất cứ một kinh Đại thừa nào. Bây giờ, chúng ta đi tới một bài kệ rất nổi danh, đó là bài kệ thứ 14, phẩm Quán Tứ Đế của Luận Trung Quán. Bài kệ này làm chấn động cả thế giới từ thế kỷ thứ II cho tới bây giờ. Ngày mà tôi được nghe bài kệ này, tôi vui sướng quá, tôi hạnh phúc quá đi! Dĩ hữu không nghĩa cố: 以有空義故 (Chính nhờ vào nghĩa Không: tự tánh của các pháp là Không. Không ở đây không phải là không ngược lại với có, mà Không ở đây hiểu là trống rỗng, nhưng trống rỗng không có nghĩa là hư vô.) Nhất thiết pháp đắc thành: 一切法得成 (Mà mọi pháp được thành: nhờ tự tánh Không đó mà vạn pháp có nền tảng để hình thành.) Nhược vô không nghĩa giả: 若無空義者 (Nếu mà không có Không, khẳng định lại ý trên) Nhất thiết tắc bất thành: 一切則不成 (Chẳng pháp nào thành lập, khẳng định chắc nịch ý trên) Vạn vật không có cái gì, trống rỗng cái gì? Nó không có tự ngã, nó trống rỗng cái tự ngã. Nhờ không có tự tánh cho nên sự vật mới biểu hiện ra được. Nếu có tự tánh thì sự vật không vô thường, nó không vô thường thì nó không có sinh diệt, nó luôn luôn là nó, nó không thể trở thành cái khác. Nói vạn vật có tự tánh thì không có vật nào có thể biểu hiện được. Nhờ vạn vật không có tự tánh cho nên tất cả vạn vật đều có thể biểu hiện ra được. Chúng ta là chúng sanh khổ đau, trầm luân, ta muốn được giải thoát, được an lạc. Cái muốn đó làm sao thực hiện được nếu ta có tự tánh? Nếu có tự tánh thì ta sẽ khổ đau dài dài, mê lầm dài dài. Vì cái khổ đau, cái mê lầm không có tự tánh cho nên ta có thể có giác ngộ, có hạnh phúc, có an lạc. Thay vì lo buồn cho “không có gì có tự tánh hết!”, thì ta nói: “May quá! Tại vì không có tự tánh cho nên cái gì cũng có hết!”. Đó là một nhãn quan, một cái thấy rất là tích cực. Cho nên mình có thể tung hô: “Vạn tuế vô thường! Vạn tuế không!” Vạn tuế sự không có tự tánh! Câu đó nó hay như vậy! Trong khi người ta than phiền về vô thường, về không thì câu này lật ngược lại hết. Nhờ vô thường, nhờ không mà cái gì cũng có thể có được. Thấy được điều đó là bắt đầu có thể tiếp xúc được với bản môn, tức là sự thật tuyệt đối, là chân đế hay đệ nhất nghĩa đế và có cơ hội tiếp xúc được với Niết bàn, tức là thực tại không sinh không diệt, không có cũng không không. Bây giờ chúng ta đi đến bài kệ trứ danh khác mà trên thế giới ai cũng biết. Bài kệ này làm nền tảng cho giáo lý và sự thực tập của Thiên Đài tông. Thầy Trí Giả cũng nương vào bài kệ đây mà rút ra pháp môn gọi là Nhất tông tam quán (quán không, quán giả và quán trung). Chúng nhân duyên sanh pháp: 眾因緣生法 (Các pháp từ nhân duyên sinh) Ngã thuyết tức thị không: 我說即是空 (Tôi tuyên bố chúng là Không) Diệc vi thị giả danh: 亦為是假名 (Thảy đều do chúng ta tự lập danh tự mà chỉ nói, đặt tên) Diệc thị trung đạo nghĩa: 亦是中道義 (Ấy là lẽ Trung đạo, bản chất của các pháp vượt khỏi những cặp đối lập, nó không tới, không đi, không sanh, không diệt, không có, không không, không phải một, không phải khác. Đó là tự tánh của Niết bàn, là trung đạo, tức là vượt thoát những ý niệm đối lập nhau. Đó là ba phép quán: không, giả và trung. Sở dĩ các pháp là không-giả-trung tại vì bản chất của chúng là duyên sinh.) Bài kệ đầu nói về hai sự thật: sự thật tương đối (tục đế hay thế đế) và sự thật tuyệt đối (chân đế hay thắng nghĩa đế). Đem sự thật về hai đế chiếu vào các pháp thì chúng ta có thể thấy những cái bị coi là mâu thuẫn thật ra nó không mâu thuẫn chút xíu nào. Nếu không thì ta thấy có khi Bụt nói thế này, có khi Bụt nói thế kia. Người chấp vào cái kia thì không thấy được cái này, người chấp vào cái này thì không thấy được cái kia. Giáo lý về nhị đế là ánh sáng rọi vào để chúng ta thấy tuy hai đế chủ trương khác nhau nhưng kỳ thực cái này có thể nương vào cái kia. Nếu không có cái này thì không thấy cái kia. Bài kệ về hai đế là một trong ba bài kệ quan trọng nhất của phẩm này. ------------------------------------------------------------ Lý Duyên Khởi trong tư tưởng Phật Giáo rất mầu nhiệm và linh thiêng, nó có khả năng đưa chúng ta qua bến bờ của sự tỉnh thức. Vì thế, bạn hãy thử sức một lần suy ngẫm về lý Duyên Khởi, tin tôi đi, bạn sẽ không lấy làm thất vọng, bạn sẽ có sự chấn động và hỷ lạc vô bờ bến. Có thể chúng ta không tường tận hết sự thâm áo của nó, nhưng chỉ nếm được một ít vị thôi cũng đã đủ làm bạn trưởng thành và nhẹ nhàng hơn trong quá trình tu tập. Hãy để đức Bồ Tát, chư vị Tổ Sư và các vị Trưởng Lão nắm tay chúng ta và dẫn chúng ta bước qua Không môn, tham quan vườn Giáo Pháp. Tâm Chương kính dâng.